Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Bệnh chết héo cây keo và biện pháp phòng trừ

( Cập nhật lúc: 28/08/2020  )

Hiện nay, bệnh chết héo cây keo do nấm Ceratocytis manginecans đã xuất hiện ở nhiều địa phương nước ta, đặc biệt là các tỉnh vùng núi phía Bắc. Trong 6 tháng đầu năm 2020, diện tích rừng trồng keo bị chết xấp xỉ 100 ha, gây thiệt hại cho người trồng rừng. 

Để phòng chống kịp thời bệnh chết héo cây keo, tránh nguy cơ lây lan và bùng phát thành dịch bà con cần chú ý:

Bệnh chết héo cây keo phát triển và có xu hướng lây lan mạnh trong tất cả các vùng trồng rừng keo lai, keo tai tượng và keo lá tràm. Nấm gây bệnh thường xâm nhập vào thân cây qua các vết thương cơ giới do con người vô tình hay cố ý tạo ra hoặc do côn trùng gây hại ở thân, cành và rễ cây, cây bị gãy cành do gió bão, vết cắt tỉa cành (Hình 1, 2). Nấm gây hại và lây lan mạnh trên các lập địa đã canh tác liên tục nhiều luân kỳ keo, đặc biệt là các khu vực trồng keo với diện tích lớn, nơi có lượng mưa cao.

Triệu chứng điển hình của bệnh chết héo cây keo là trên thân hoặc cành cây bị bệnh có những vết loét, thâm hoặc vết lõm ở phần vỏ cây. Vỏ trong và gỗ xung quanh vị trí vết bệnh bị đổi màu đậm hơn bình thường, vỏ ngoài khô có vết nứt, có thể chảy nhựa hoặc sùi bọt (Hình 3, 4). Phần gỗ ở vị trí vết bệnh bị biến màu, gỗ thường bị chuyển sang màu nâu đen hoặc màu xanh đen (Hình 5,6). Khi vỏ cây và gỗ bị chuyển màu, tán lá bắt đầu héo, nhưng lá vẫn chưa rụng. Sau một thời gian, lá bị khô, rụng và cây chết (Hình 8,9).

 

 

Các biện pháp phòng bệnh gồm:

Hạn chế trồng keo ở nơi có lượng mưa bình quân trên 2.400 mm/năm. Ở nơi đã xuất hiện bệnh, cần xử lý thực bì và làm đất theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm loại bỏ hoặc diệt trừ mầm bệnh. Nên trồng hỗn giao theo lô, các lô cạnh nhau cần trồng giống cây hoặc loài cây khác nhau. Cần luân canh loài cây, giống cây giữa các chu kỳ, đặc biệt từ chu kỳ 2 trở đi.

Chuẩn bị đất trồng rừng: Xử lý thực bì trước khi trồng 3 tháng; thu gom thực bì, cành nhánh sau khai thác, băm nhỏ, xếp theo đường đồng mức, xử lý bằng vôi bột với liều lượng 1-2% vôi bột so với tổng khối lượng vật liệu cần xử lý hoặc có thể đốt thực bì có kiểm soát. Đào hố trước khi trồng ít nhất 1 tháng; bón vôi (0,3-0,5 kg/hố) và trộn đều với đất trong hố ngay sau khi đào hố; phơi ải hố ít nhất 2 tuần sau khi bón vôi; sử dụng các chế phẩm phòng chống mối, kiến trước khi trồng. Tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật trồng keo của Bộ Nông nghiệp và PTNT; sử dụng chế phẩm vi sinh vật hỗn hợp MF1, chế phẩm sinh học từ nấm đối kháng Trichoderma và vi khuẩn đối kháng Bacillus subtilis bón vào hố trước khi trồng, liều lượng 10 g/hố.

Đối với các lô rừng được trồng từ chu kỳ 3 trở lên có dấu hiệu giảm năng suất so với chu kỳ trước, cần bón bổ sung phân vi lượng (trong đó có Bo), liều lượng 1 g/cây.

Những nơi đất có độ dốc thấp (dưới 15o), nếu trồng rừng keo từ chu kỳ 3 trở lên cần chú ý loại bỏ gốc cây cũ, làm đất toàn diện, xử lý đất bằng vôi bột (1,5-2 tấn/ha).

Chuẩn bị cây giống: Sử dụng các giống chưa phát hiện bị bệnh hoặc tỷ lệ bị bệnh thấp như keo lai AH7, keo lá tràm AA9, keo tai tượng xuất xứ Úc.... Trước khi trồng 1-3 ngày phun một trong các loại thuốc như Metaxyl 500WP, Manozeb 80WP, Lanomyl 680WP, Ridomid Gold 68WG... để phòng bệnh cho cây con.

Quá trình bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng rừng, cần tránh không gây tổn thương đến thân, cành, rễ của cây, nhất là cây trồng ở độ tuổi 1-3; tiến hành tỉa cành vào mùa khô và tiến hành tỉa đầu cành khi cây đạt 5-6 tháng tuổi, cây cao trên 1,2m; sử dụng phân có hàm lượng đạm thấp khi bón thúc; phòng trừ côn trùng đục thân cành.

Xử lý khi rừng bị bệnh

Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình bệnh hại ít nhất 1 lần/tháng để sớm phát hiện bệnh và phòng trừ kịp thời.

Khi phát hiện rừng bị bệnh chết héo cây keo: Nếu tỷ lệ cây bị bệnh bình quân của lô rừng dưới 15% thì tiến hành chặt, mang ra khỏi rừng và đốt tiêu hủy; giữ lại các cây chưa có triệu chứng bị bệnh. Không tận thu các cây bị bệnh chết héo, không vận chuyển sang nơi khác.

Nếu tỷ lệ cây bị bệnh bình quân từ 16 đến 50% thì tiến hành chặt, mang ra khỏi rừng và tiêu hủy các cây bị chết héo. Đồng thời, áp dụng biện pháp hóa học cục bộ theo đám (khi cây chết theo đám) hoặc toàn bộ lô (khi cây chết rải rác). Phun trừ bệnh bằng một trong các loại thuốc như Metaxyl 500WP, Manozeb 80WP, Lanomyl 680WP, Ridomid Gold 68WG... Chú ý pha thuốc với chất bám dính, nồng độ 3g hoạt chất/lít, liều lượng 400-600 lít dung dịch/ha, phun nhắc lại 2 lần, mỗi lần cách nhau 15 ngày.

Nếu tỷ lệ cây bị bệnh bình quân trên 50% thì thanh lý rừng theo quy định của pháp luật.

Trồng lại rừng sau khi thanh lý rừng bị bệnh: Xử lý thực bì, đất theo các khuyến cáo nêu trên. Luân canh loài cây trồng khác phù hợp với điều kiện sinh thái tại địa phương.

 

Phạm Thu